圣经文本

 

Cuộc di cư第40章:24

学习

       

24 Ðể chân đèn trong hội mạc về phía nam, đối diện cùng cái bàn.

圣经文本

 

1 vị vua第6章

学习

   

1 Xảy ra năm bốn trăm tám mươi, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô, là năm thứ tư của Sa-lô-môn trị vì trên Y-sơ-ra-ên, nhằm tháng Xíp, nghĩa là tháng thứ hai, thì người cất đền của Ðức Giê-hô-va.

2 Cái đền mà vua Sa-lô-môn cất cho Ðức Giê-hô-va, bề dài có sáu mươi thước, bề ngang hai mươi thước.

3 Cái hiên cửa ở trước đền bề dài hai mươi thước, bằng bề ngang của đền, và rộng mười thước ở trước đền.

4 Vua cũng làm cho đến những cửa sổ có song, khuôn cây.

5 Người cất những từng lầu, dựa vào vách từ phía đền, tức là dựa vào vách chung quanh đền thờ và nơi thánh; cũng làm những phòng chung quanh đền.

6 Từng dưới rộng năm thước, từng giữa rộng sáu thước; và từng trên rộng bảy thước, vì vua cất sụt lui các vách vòng ngoài nhà, đặng tránh sườn xà hoành đâm vào vách đền.

7 Khi cất đền, người ta dùng đá đã đẽo sẵn nơi hầm, nên không nghe tiếng búa, rìu hay là khí dụng khác bằng sắt tại nơi đền đương khi cất.

8 Cửa vào các phòng từng thứ nhì, ở bên phía hữu của đền; người ta đi lên từng giữa bởi một cái thang khu ốc; rồi từ từng giữa lên từng thứ ba.

9 Khi cất đền xong; thì Sa-lô-môn lợp nó bằng đòn tay và ván gỗ bá hương,

10 cũng cất những từng lầu năm thước dựa vào tứ phía đền, dính với nhà bởi cây đà bá hương.

11 Bấy giờ có lời Ðức Giê-hô-va phán với Sa-lô-môn rằng:

12 về nhà này mà ngươi đương xây cất, nếu ngươi vâng theo các luật lệ ta, noi theo các mạng lịnh ta, giữ và đi trong hết thảy các điều răn của ta, thì ta sẽ vì ngươi làm hoàn thành lời ta đã hứa cùng Ða-vít, cha ngươi.

13 Ta sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên, chẳng hề bỏ Y-sơ-ra-ên, là dân ta.

14 Ấy vậy, Sa-lô-môn xây đền và làm cho hoàn thành.

15 Người lấy ván bá hương đóng vách phía trong đền, từ đất cho đến trần, và lót nền đất bằng ván cây tùng.

16 Từ cuối phía trong đền hai mươi thước, người đóng ngăn bằng ván bá hương, từ nền cho đến trần, đặng làm nơi chí thánh.

17 Còn bốn mươi thước kia, làm tiền đường của đền thờ.

18 Ở phía trong đền, có gỗ bà hương chạm hình dưa ác và hoa mới nở; toàn là gỗ bá hương, không thấy đá.

19 Còn nơi chí thánh, Sa-lô-môn đặt ở phía trong đền, tận cuối trong, đặng để hòm giao ước của Ðức Giê-hô-va tại đó.

20 Phía trong nơi chí thánh có hai mươi thước bề dài, hai mươi thước bề ngang, bọc nó bằng vàng ròng, và cũng bọc vàng bàn thờ bằng cây bá hương nữa.

21 Sa-lô-môn bọc vàng ròng tuồng trong của nhà, và lấy xiềng vàng giăng trước nơi chí thánh và bọc bằng vàng.

22 Người cũng bọc vàng toàn cả nhà; người cũng lót vàng khắp mặt bàn thờ ở đằng trước nơi chí thánh.

23 Người làm cho nơi chí thánh hai chê-ru-bin bằng gỗ ô-li-ve, bề cao mười thước.

24 Cánh này và Cánh kia của mỗi chê-ru-bin có năm thước, thế là mười thước từ chót Cánh này tới chót Cánh kia.

25 Chê-ru-bin thứ nhì cũng có mười thước. Hai chê-ru-bin đều đồng một cỡ và một dáng với nhau.

26 Chê-ru-bin này có mười thước bề cao, và chê-ru-bin kia cũng vậy.

27 Sa-lô-môn để hai chê-ru-bin tại nơi chí thánh, ở trong cùng của đền cánh của chê-ru-bin thứ nhất đụng nhau tại giữa nơi chí thánh.

28 Người cũng bọc vàng cho hai chê-ru-bin.

29 Bốn phía vách đền, phía trong và phía ngoài, Sa-lô-môn khiến chạm nổi lên hình chê-ru-bin, cây chà là và hoa nở;

30 cũng phủ đất nhà bằng vàng, bề trong và bề ngoài.

31 Tại chỗ vào nơi chí thánh, người làm một cái cửa hai cánh bằng gỗ ô-li-ve; thanh và cột choán một phần năm của mặt tiền.

32 Người khiến chạm nổi lên trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-li-ve ấy những hình chê-ru-bin, cây chà là và hoa nở; rồi bọc bằng vàng, tráng vàng ra trên hình chê-ru-bin và hình cây chà là.

33 Về cửa đền thờ, người cũng làm cột bằng gỗ ô-li-ve, choán hết một phần tư của vách,

34 lại làm hai cánh cửa bằng gỗ tòng; mỗi cánh có hai miếng trá khép lại được.

35 Sa-lô-môn khiến chạm nổi lên những hình chê-ru-bin, cây chà là và hoa nở; rồi bọc bằng vàng, tráng vàng ra trên các vật chạm trổ.

36 Người xây tường hành lang phía trong bằng ba hàng đá chạm, và một hàng cây xà gỗ bá hương.

37 Năm thứ tư, năm tháng Xíp, cái nền của đền thờ Ðức Giê-hô-va đã đặt;

38 năm thứ mười một, nhằm tháng Bu-lơ, nghĩa là tháng tám, đền thờ hoàn thành trong mọi phần nó, theo kiểu đã ra. Sa-lô-môn cất đền hết bảy năm.

   

来自斯威登堡的著作

 

Arcana Coelestia#8535

学习本章节

  
/10837  
  

8535. 'So Aaron laid it up before the Testimony, to be kept' means that it was in the presence of the Divine. This is clear from the meaning of 'laying up to be kept' as to preserve the memory of it, as above in 8526 (end), 8533; and from the meaning of 'before the Testimony' as in the presence of the Divine. The fact that 'the Testimony' means the Divine is evident from what comes before, where Moses tells Aaron to lay it up before Jehovah, 8532, that is, before the Divine. The reason why 'the Testimony' means the Divine is that in the universal sense 'the Testimony' is used to mean the Word, and the Word is Divine truth, thus the Lord. That He is the Word is evident in John,

In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God. And the Word became flesh and dwelt among us. John 1:1, 14

The fact that 'the Testimony' is the Lord in respect of Divine Truth is clear from the ark containing the law delivered from Sinai, which is called the Testimony. From it the tabernacle derived all the holiness it possessed, and the Testimony was God's holiness itself. This is evident from the consideration that above it there was the Mercy Seat with the cherubim; immediately outside the veil there, there stood the tables of gold with the loaves and the lamps; Aaron performed the holiest act of worship there and also Jehovah afterwards spoke to Moses there, above the Mercy Seat between the two cherubs, thus from the Testimony. For these details, see Exodus 22:16, 21, 22; 40:20.

  
/10837  
  

Thanks to the Swedenborg Society for the permission to use this translation.