Bible

 

Sáng thế 13

Studie

   

1 Áp-ram ở Ê-díp-tô dẫn vợ cùng các tài vật mình và Lót đồng trở lên Nam phương.

2 Vả, Áp-ram rất giàu có súc vật, vàngbạc.

3 người vừa đi vừa đóng trại, từ Nam phương trở về Bê-tên và A-hi,

4 nơi đã lập một bàn thờ lúc trước. Ở đó Áp-ram cầu khẩn danh Ðức Giê-hô-va.

5 Vả, Lót cùng đi với Áp-ram, cũng có chiên, bò, và trại.

6 Xứ đó không đủ chỗ cho hai người ở chung, vì tài vật rất nhiều cho đến đỗi không ở chung nhau được.

7 Trong khi dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít ở trong xứ, xảy có chuyện tranh giành của bọn chăn chiên Áp-ram cùng bọn chăn chiên Lót.

8 Áp-ram nói cùng Lót rằng: Chúng ta là cốt nhục, xin ngươi cùng ta chẳng nên cãi lẫy nhau và bọn chăn chiên ta cùng bọn chăn chiên ngươi cũng đừng tranh giành nhau nữa.

9 Toàn xứ há chẳng ở trước mặt ngươi sao? Vậy, hãy lìa khỏi ta; nếu ngươi lấy bên hữu, ta sẽ qua bên tả.

10 Lót bèn ngước mắt lên, thấy khắp cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh, là nơi (trước khi Ðức Giê-hô-va chưa phá hủy thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ) thảy đều có nước chảy tưới khắp đến Xoa; đồng ó cũng như vườn của Ðức Giê-hô-va và như xứ Ê-díp-tô vậy.

11 Lót bèn chọn lấy cho mình hết cánh đồng bằng bên sông Giô-đanh và đi qua phía Ðông. Vậy, hai người chia rẽ nhau.

12 Áp-ram ở trong xứ Ca-na-an, còn Lót ở trong thành của đồng bằng và dời trại mình đến Sô-đôm.

13 Vả, dân Sô-đôm là độc ác và kẻ phạm tội trọng cùng Ðức Giê-hô-va.

14 Sau khi Lót lìa khỏi Áp-ram rồi, Ðức Giê-hô-va phán cùng Áp-ram rằng: Hãy nhướng mắt lên, nhìn từ chỗ ngươi cho đến phương bắc, phương nam, phương đông và phương tây:

15 Vì cả xứ nào ngươi thấy, ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi đời đời.

16 Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi như bụi trên đất; thế thì, nếu kẻ nào đếm đặng dòng dõi ngươi vậy.

17 Hãy đứng dậy đi khắp trong xứ, bề dài và bề ngang; vì ta sẽ ban cho ngươi xứ nầy.

18 Ðoạn áp-ram đời trại mình đến ở nơi lùm cây dẻ bộp tại Mam-rê, thuộc về Hếp-rôn, và lập tại đó một bàn thờ cho Ðức Giê-hô-va.

   

Ze Swedenborgových děl

 

Arcana Coelestia # 1726

Prostudujte si tuto pasáž

  
/ 10837  
  

1726. King of Salem. That this signifies a state of peace as to interior or rational things, is evident from the signification of “Salem.” In the original language “Salem” means “peace,” and also “perfection;” thus it signifies a state of peace, and a state of perfection. A state of peace is the state of the Lord’s kingdom; in that state the Lord’s celestial and spiritual things are as in their morning, and in their spring; for peace is like the dawn in the early morning, and like the spring in the springtime. The dawn and the spring cause all things that then meet the senses to be full of joy and gladness; every object draws an affection from the general one of the dawn and of the springtime. So is it with the state of peace in the Lord’s kingdom: in the state of peace all celestial and spiritual things are as it were in their morning or springtide flower and smile, that is, in their happiness itself. So does the state of peace affect everything, for the Lord is peace itself. This is signified by Salem also in David:

In Judah is God known, His name is great in Israel, in Salem also is His tabernacle, and His dwelling place in Zion (Psalms 76:1-2).

When a man is in the combats of temptations, he is by turns gifted by the Lord with a state of peace, and is thus refreshed. A state of peace is here signified by “Salem;” and presently also by the “bread and wine,” by which celestial and spiritual things are signified; thus a state of celestial and spiritual things in peace, which state is refreshment itself.

  
/ 10837  
  

Thanks to the Swedenborg Foundation for the permission to use this translation.