Le texte de la Bible

 

Giê-rê-mi 44

Étudier

   

1 Có lời truyền cho Giê-rê-mi về hết thảy người Giu-đa ở trong đất Ê-díp-tô, tại Mít-đôn, Tác-pha-nết, Nốp, và trong xứ Pha-trốt, rằng:

2 Ðức Giê-hô-va vạn quân, Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi có thấy mọi tai vạ mà ta đã giáng cho Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa. Kìa, những thành ấy ngày nay hoang vu không dân ở,

3 vì cớ tội ác dân chúng nó đã phạm để chọc giận ta, đi đốt hương và hầu việc các thần khác mà chúng nó và các ngươi cùng tổ phụ các ngươi cũng chưa từng biết đến.

4 Dầu vậy, ta đã sai mọi tôi tớ ta, tức các tiên tri, đến cùng các ngươi; ta dậy sớm sai họ đến đặng bả các ngươi rằng: Ôi! sự gớm ghiếc mà ta ghét đó thì đừng phạm đến.

5 Nhưng chúng nó chẳng nghe, chẳng để tai vào, chẳng chừa sự dữ, và cứ đốt hương cho các thần khác.

6 Vì vậy cơn giận và sự thạnh nộ của ta đã đổ ra như lửa đốt nơi các thành của Giu-đa và các đường phố của Giê-ru-sa-lem; và chúng nó bị đổ nát hoang vu như có ngày nay.

7 Bây giờ Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời vạn quân, Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Sao các ngươi phạm tội trọng dường ấy nghịch cùng mạng sống mình, để cho đờn ông, đờn bà, trẻ con, trẻ đương , bị cất khỏi giữa Giu-đa, đến nỗi dân các ngươi không còn lại chút nào;

8 bởi các ngươi chọc giận ta bằng những việc tay mình làm ra, đốt hương cho các thần khác trong đất Ê-díp-tô, là nơi các ngươi mới đến trú ngụ; đến nỗi các ngươi chuốc lấy sự hủy diệt cho mình, đem mình làm cớ rủa sả sỉ nhục giữa các dân thiên hạ?

9 Các ngươi đã quên điều ác của tổ phụ mình, điều ác của các vua Giu-đa, điều ác của các hoàng hậu, điều ác của chính các ngươi cùng vợ mình đã phạm trong đất Giu-đa và trong các đường phố Giê-ru-sa-lem hay sao?

10 Chúng nó chẳng hạ mình xuống cho đến ngày nay, chẳng kính sợ, chẳng bước theo luật pháp mạng lịnh ta đã để trước mặt các ngươi và tổ phụ các ngươi.

11 Vậy nên Ðức Giê-hô-va vạn quân, Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nầy, ta sẽ để mặt ta nghịch cùng các ngươi mà giáng họa cho, và diệt cả Giu-đa.

12 Ta sẽ lấy dân Giu-đa sót lại, tức những kẻ đã xây mặt vào đất Ê-díp-tô đặng trú ngụ ở đó; chúng nó sẽ bị diệt tại đó hết thảy. Chúng nó sẽ ngã trên đất Ê-díp-tô, chết dưới gươm hay là bởi đói kém. Kẻ nhỏ người lớn sẽ đều chết vì gươm vì đói kém, là cớ cho người ta trù ẻo, gở lạ, rủa sả, sỉ nhục.

13 Ta sẽ phạt những kẻ ở trong đất Ê-díp-tô, như đã phạt Giê-ru-sa-lem bằng gươm dao, đói kém, và ôn dịch;

14 đến nỗi trong những dân Giu-đa sót lại đến Ê-díp-tô đặng trú ngụ, thì chẳng có ai thoát khỏi, hay sót lại, đặng trở về đất Giu-đa, là nơi chúng nó còn mong trở về ở. Chúng nó sẽ không trở về được, trừ ra những kẻ tránh khỏi mà thôi.

15 Bấy giờ, hết thảy những người biết vợ mình đốt hương cho các thần khác, hết thảy đờn bà đứng tại đó nhóm thành một hội đông, tức mọi dân sự ở trong đất Ðức Chúa Trời, tại Pha-trốt, đáp cùng Giê-rê-mi rằng:

16 Về sự ông nhơn danh Ðức Giê-hô-va mà nói cùng chúng tôi, thì chúng tôi không khứng nghe đâu.

17 Nhưng chúng ta chắc sẽ làm trọn mọi lời đã ra từ miệng chúng tôi, sẽ đốt hương và làm lễ quán cho nữ vương trên trời, như chúng tôi cùng tổ phụ, vua, quan trưởng chúng tôi đã làm trong các thành của Giu-đa và các đường phố Giê-ru-sa-lem; vì lúc bấy giờ chúng tôi có bánh đặng no mình, hưởng phước, chẳng thấy tai vạ gì.

18 Nhưng, từ khi chúng tôi thôi đốt hương và làm lễ quán cho nữ vương trên trời, thì chúng tôi thiếu thốn mọi sự, và bị nuốt bởi gươm dao đói kém.

19 Vả lại, khi chúng tôi đốt hương và làm lễ quán cho nữ vương trên trời, chúng tôi làm bánh để thờ lạy người, và dâng lễ quán cho người nữa, thì chồng chúng tôi há chẳng biết hay sao?

20 Giê-rê-mi bàn nói cùng cả dân sự, đờn ông, đờn bà, và mọi kẻ đã trả lời cho người như vậy, rằng:

21 Các ngươi cùng tổ phụ, các vua các quan trưởng mình, và dân trong đất, đã đốt hương trong các thành Giu-đa và trong các đường phố Giê-ru-sa-lem, Ðức Giê-hô-va há chẳng đã nhớ lấy và đã ghi trong ý tưởng Ngài sao?

22 Vì cớ sự hung ác của việc làm các ngươi và sự gớm ghiếc các ngươi đã phạm, nên Ðức Giê-hô-va không chịu được nữa. Vì vậy đất các ngươi đã trở nên hoang vu, gở lạ, và sự rủa sả, chẳng có ai ở, như có ngày nay.

23 Ấy là bởi các ngươi đã đốt hương và đã phạm tội nghịch cùng Ðức Giê-hô-va, bởi các ngươi chẳng vâng theo tiếng Ðức Giê-hô-va, và không bước theo luật pháp, mạng lịnh, và sự dạy dỗ của Ngài, nên tai vạ nầy đã đến cho các ngươi, như có ngày nay.

24 Giê-rê-mi lại nói cùng dân sự và mọi người đờn bà rằng: Hỡi cả dân Giu-đa hiện ở trong đất Ê-díp-tô, hãy nghe lời của Ðức Giê-hô-va.

25 Ðức Giê-hô-va vạn quân, Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi và vợ các ngươi đã nói ra từ miệng mình, và lấy tay làm trọn điều mình đã nói rằng: Thật chúng ta sẽ làm thành lời mình đã khấn nguyện, đốt hương, và làm lễ quán cho nữ vương trên trời. Vậy các ngươi khá giữ vững lời nguyện mình và làm trọn lời nguyện.

26 Cho nên, hỡi cả dân Giu-đa hiện ở trong đất Ê-díp-tô, hãy nghe lời Ðức Giê-hô-va. Ðức Chúa Trời có phán: Nầy ta lấy danh lớn mình mà thề, trong khắp đất Ê-díp-tô sẽ chẳng có một người Giu-đa nào còn mở miệng xưng danh ta nữa, mà rằng: Thật như Chúa Giê-hô-va hằng sống!

27 Nầy, ta sẽ tỉnh thức đặng xuống họa cho chúng nó mà không xuống phước; mọi người Giu-đa ở trong đất Ê-díp-tô sẽ đều bị vồ nuốt bởi gươm dao đói kém cho đến đã diệt hết.

28 Chỉ có một số rất ít người sẽ được thoát khỏi gươm dao, từ đất Ê-díp-tô trở về trong đất Giu-đa; và mọi người Giu-đa còn sót lại, tức những kẻ đã đến đặng trú ngụ trong đất Ê-díp-tô nầy, thì sẽ biết lời nào được nghiệm, lời của ta hay là lời của chúng nó.

29 Ðức Giê-hô-va phán: Nầy là dấu mà các ngươi bởi đó biết ta sẽ hình phạt các ngươi trong nơi nầy, để các ngươi biết rằng lời ta phán về tai họa các ngươi chắc ứng nghiệm.

30 Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ phó Pha-ra-ôn-Hốp-ra, vua Ê-díp-tô, trong tay kẻ thù nó và kẻ đòi mạng nó, như đã phó Sê-đê-kia, vua Giu-đa, trong tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, là kẻ thù và đòi mạng Sê-đê-kia.

   

Le texte de la Bible

 

Giê-rê-mi 44

Étudier

   

1 Có lời truyền cho Giê-rê-mi về hết thảy người Giu-đa ở trong đất Ê-díp-tô, tại Mít-đôn, Tác-pha-nết, Nốp, và trong xứ Pha-trốt, rằng:

2 Ðức Giê-hô-va vạn quân, Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi có thấy mọi tai vạ mà ta đã giáng cho Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa. Kìa, những thành ấy ngày nay hoang vu không dân ở,

3 vì cớ tội ác dân chúng nó đã phạm để chọc giận ta, đi đốt hương và hầu việc các thần khác mà chúng nó và các ngươi cùng tổ phụ các ngươi cũng chưa từng biết đến.

4 Dầu vậy, ta đã sai mọi tôi tớ ta, tức các tiên tri, đến cùng các ngươi; ta dậy sớm sai họ đến đặng bả các ngươi rằng: Ôi! sự gớm ghiếc mà ta ghét đó thì đừng phạm đến.

5 Nhưng chúng nó chẳng nghe, chẳng để tai vào, chẳng chừa sự dữ, và cứ đốt hương cho các thần khác.

6 Vì vậy cơn giận và sự thạnh nộ của ta đã đổ ra như lửa đốt nơi các thành của Giu-đa và các đường phố của Giê-ru-sa-lem; và chúng nó bị đổ nát hoang vu như có ngày nay.

7 Bây giờ Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời vạn quân, Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Sao các ngươi phạm tội trọng dường ấy nghịch cùng mạng sống mình, để cho đờn ông, đờn bà, trẻ con, trẻ đương , bị cất khỏi giữa Giu-đa, đến nỗi dân các ngươi không còn lại chút nào;

8 bởi các ngươi chọc giận ta bằng những việc tay mình làm ra, đốt hương cho các thần khác trong đất Ê-díp-tô, là nơi các ngươi mới đến trú ngụ; đến nỗi các ngươi chuốc lấy sự hủy diệt cho mình, đem mình làm cớ rủa sả sỉ nhục giữa các dân thiên hạ?

9 Các ngươi đã quên điều ác của tổ phụ mình, điều ác của các vua Giu-đa, điều ác của các hoàng hậu, điều ác của chính các ngươi cùng vợ mình đã phạm trong đất Giu-đa và trong các đường phố Giê-ru-sa-lem hay sao?

10 Chúng nó chẳng hạ mình xuống cho đến ngày nay, chẳng kính sợ, chẳng bước theo luật pháp mạng lịnh ta đã để trước mặt các ngươi và tổ phụ các ngươi.

11 Vậy nên Ðức Giê-hô-va vạn quân, Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nầy, ta sẽ để mặt ta nghịch cùng các ngươi mà giáng họa cho, và diệt cả Giu-đa.

12 Ta sẽ lấy dân Giu-đa sót lại, tức những kẻ đã xây mặt vào đất Ê-díp-tô đặng trú ngụ ở đó; chúng nó sẽ bị diệt tại đó hết thảy. Chúng nó sẽ ngã trên đất Ê-díp-tô, chết dưới gươm hay là bởi đói kém. Kẻ nhỏ người lớn sẽ đều chết vì gươm vì đói kém, là cớ cho người ta trù ẻo, gở lạ, rủa sả, sỉ nhục.

13 Ta sẽ phạt những kẻ ở trong đất Ê-díp-tô, như đã phạt Giê-ru-sa-lem bằng gươm dao, đói kém, và ôn dịch;

14 đến nỗi trong những dân Giu-đa sót lại đến Ê-díp-tô đặng trú ngụ, thì chẳng có ai thoát khỏi, hay sót lại, đặng trở về đất Giu-đa, là nơi chúng nó còn mong trở về ở. Chúng nó sẽ không trở về được, trừ ra những kẻ tránh khỏi mà thôi.

15 Bấy giờ, hết thảy những người biết vợ mình đốt hương cho các thần khác, hết thảy đờn bà đứng tại đó nhóm thành một hội đông, tức mọi dân sự ở trong đất Ðức Chúa Trời, tại Pha-trốt, đáp cùng Giê-rê-mi rằng:

16 Về sự ông nhơn danh Ðức Giê-hô-va mà nói cùng chúng tôi, thì chúng tôi không khứng nghe đâu.

17 Nhưng chúng ta chắc sẽ làm trọn mọi lời đã ra từ miệng chúng tôi, sẽ đốt hương và làm lễ quán cho nữ vương trên trời, như chúng tôi cùng tổ phụ, vua, quan trưởng chúng tôi đã làm trong các thành của Giu-đa và các đường phố Giê-ru-sa-lem; vì lúc bấy giờ chúng tôi có bánh đặng no mình, hưởng phước, chẳng thấy tai vạ gì.

18 Nhưng, từ khi chúng tôi thôi đốt hương và làm lễ quán cho nữ vương trên trời, thì chúng tôi thiếu thốn mọi sự, và bị nuốt bởi gươm dao đói kém.

19 Vả lại, khi chúng tôi đốt hương và làm lễ quán cho nữ vương trên trời, chúng tôi làm bánh để thờ lạy người, và dâng lễ quán cho người nữa, thì chồng chúng tôi há chẳng biết hay sao?

20 Giê-rê-mi bàn nói cùng cả dân sự, đờn ông, đờn bà, và mọi kẻ đã trả lời cho người như vậy, rằng:

21 Các ngươi cùng tổ phụ, các vua các quan trưởng mình, và dân trong đất, đã đốt hương trong các thành Giu-đa và trong các đường phố Giê-ru-sa-lem, Ðức Giê-hô-va há chẳng đã nhớ lấy và đã ghi trong ý tưởng Ngài sao?

22 Vì cớ sự hung ác của việc làm các ngươi và sự gớm ghiếc các ngươi đã phạm, nên Ðức Giê-hô-va không chịu được nữa. Vì vậy đất các ngươi đã trở nên hoang vu, gở lạ, và sự rủa sả, chẳng có ai ở, như có ngày nay.

23 Ấy là bởi các ngươi đã đốt hương và đã phạm tội nghịch cùng Ðức Giê-hô-va, bởi các ngươi chẳng vâng theo tiếng Ðức Giê-hô-va, và không bước theo luật pháp, mạng lịnh, và sự dạy dỗ của Ngài, nên tai vạ nầy đã đến cho các ngươi, như có ngày nay.

24 Giê-rê-mi lại nói cùng dân sự và mọi người đờn bà rằng: Hỡi cả dân Giu-đa hiện ở trong đất Ê-díp-tô, hãy nghe lời của Ðức Giê-hô-va.

25 Ðức Giê-hô-va vạn quân, Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi và vợ các ngươi đã nói ra từ miệng mình, và lấy tay làm trọn điều mình đã nói rằng: Thật chúng ta sẽ làm thành lời mình đã khấn nguyện, đốt hương, và làm lễ quán cho nữ vương trên trời. Vậy các ngươi khá giữ vững lời nguyện mình và làm trọn lời nguyện.

26 Cho nên, hỡi cả dân Giu-đa hiện ở trong đất Ê-díp-tô, hãy nghe lời Ðức Giê-hô-va. Ðức Chúa Trời có phán: Nầy ta lấy danh lớn mình mà thề, trong khắp đất Ê-díp-tô sẽ chẳng có một người Giu-đa nào còn mở miệng xưng danh ta nữa, mà rằng: Thật như Chúa Giê-hô-va hằng sống!

27 Nầy, ta sẽ tỉnh thức đặng xuống họa cho chúng nó mà không xuống phước; mọi người Giu-đa ở trong đất Ê-díp-tô sẽ đều bị vồ nuốt bởi gươm dao đói kém cho đến đã diệt hết.

28 Chỉ có một số rất ít người sẽ được thoát khỏi gươm dao, từ đất Ê-díp-tô trở về trong đất Giu-đa; và mọi người Giu-đa còn sót lại, tức những kẻ đã đến đặng trú ngụ trong đất Ê-díp-tô nầy, thì sẽ biết lời nào được nghiệm, lời của ta hay là lời của chúng nó.

29 Ðức Giê-hô-va phán: Nầy là dấu mà các ngươi bởi đó biết ta sẽ hình phạt các ngươi trong nơi nầy, để các ngươi biết rằng lời ta phán về tai họa các ngươi chắc ứng nghiệm.

30 Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, ta sẽ phó Pha-ra-ôn-Hốp-ra, vua Ê-díp-tô, trong tay kẻ thù nó và kẻ đòi mạng nó, như đã phó Sê-đê-kia, vua Giu-đa, trong tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, là kẻ thù và đòi mạng Sê-đê-kia.

   

Des oeuvres de Swedenborg

 

Arcana Coelestia #6148

Étudier ce passage

  
/ 10837  
  

6148. 'Only the ground of the priests he did not buy' means that the internal obtained for itself from the natural every capacity to receive good, because every such capacity came from itself. This is clear from the representation of 'Joseph', about whom these things are said, as the internal, dealt with already; from the meaning of 'the ground' as the receptacle of truth, dealt with above in 6135-6137, at this point the capacity to receive good, for the capacity of something is its inherent ability to receive, which causes a receptacle to be a receptacle (that capacity comes from good, that is, from the Lord through good, for if the good of love did not flow in from the Lord no one would ever have the capacity to receive truth or good. That inflow of the good of love from the Lord causes everything present inwardly in a person to be of a receptive nature. The truth that the capacity to receive good comes from the natural is meant by the fact that the ground lay in Egypt, since 'Egypt' means the natural in respect of factual knowledge, 6142); from the meaning of 'the priests' as good, dealt with below; and from the meaning of 'not buying' as not taking those capacities to itself - not in the way that it made truths and forms of the good of truth, together with their receptacles, its own, which came about through periods of desolation and sustainment - for the reason that those capacities came from itself, from the internal. All these meanings serve to show that 'only the ground of the priests he did not buy' means that the internal obtained for itself from the natural every capacity to receive good, because every such capacity came from itself.

[2] The implications of all this are that a person's capacities to receive truth and good come directly from the Lord; he obtains them without any help at all from himself. A person's capacity to receive goodness and truth is maintained in him unceasingly; and from that capacity he possesses understanding and will. But a person does not receive them if he turns to evil. The capacity to receive does, it is true, remain, but its access to thought and sensitivity is blocked, on account of which his capacity to see what is true and have a sensitive awareness of what is good perishes. And it perishes to the extent that he turns to evil and in faith and life becomes firmly settled in it. The fact that a person contributes nothing whatever to his capacity to receive truth and good is well known from the Church's teaching that nothing at all of the truth of faith and nothing at all of the good of charity comes from man but from the Lord. Yet a person can destroy that capacity residing with him. From all this one may now see how one should understand the idea that the internal obtained for itself from the natural every capacity to receive good, because every such capacity came from itself. The expression 'from the natural' is used because the inflow of good from the Lord is effected by the Lord through the internal into the natural; and once the capacity to receive has been obtained from there, the inflow takes place, for now there is reception, see 5828.

[3] So far as the meaning of 'the priests' as forms of good is concerned, it should be recognized that there are two realities which go forth from the Lord - goodness and truth. Divine Good was represented by priests, and Divine Truth by kings; and this is why 'the priests' means forms of good and 'the kings' truths. Regarding the attribution of Priesthood and Kingship to the Lord, see 1728, 2015 (end), 3670. In the representative Ancient Church those two offices of priest and king existed jointly in one personage, the reason for this being that goodness and truth which go forth from the Lord are united; and they are also joined together in heaven among the angels.

[4] A personage in the Ancient Church in whom the two offices existed joined together was called Melchizedek, a name meaning king of righteousness. This may be seen from the following statement about Melchizedek who came to Abraham, 1

Melchizedek king of Salem brought out bread and wine; and he was a priest to God Most High. And he blessed Abraham. Genesis 14:18-19.

His representation of the Lord in both offices is evident from the fact that he was a king and at the same time a priest, and from the fact that he was allowed to bless Abraham and offer him bread and wine, which even at that time were the symbols of the good of love and the truth of faith. His representation of the Lord in both offices is further evident in David,

Jehovah has sworn and will not repent, You are a priest for ever after the manner of Melchizedek. Psalms 110:4.

These words were spoken in reference to the Lord. 'After the manner of Melchizedek' means that He is both King and Priest, that is, in the highest sense that Divine Good and Divine Truth go forth together from Him.

[5] Because a representative Church was going to be established also among the descendants of Jacob, they too were to have a single personage to represent jointly Divine Good and Divine Truth, which go forth from the Lord united. But on account of the wars and the idolatry of that people the two were in fact divided right from the start; those who ruled over the attended to sacred duties were referred to as the priests, who belonged to the seed of Aaron and were the Levites. At a later time the two functions were joined together in a single person, as they were in Eli and Samuel. Yet because the nature of the people was such that the representative Church could not be established among them, only a representative of the Church, on account of the practice of idolatry prevalent among them, the two functions were allowed to be separated. The Lord was then represented in respect of Divine Truth by kings and in respect of Divine Good by priests. The separation took place because the people desired it, not because the Lord took any pleasure in it, as is clear from the Word of Jehovah to Samuel,

Obey the voice of the people in all that they have said to you, for they have not rejected you, but they have rejected Me, that I should not reign over them; and show them the right of the king. 1 Samuel 8:7-end; 12:19-20.

[6] The reason why the two functions were not meant to be separated was that Divine Truth separated from Divine Good condemns all people, whereas Divine Truth united to Divine Good saves them. Judged by Divine Truth a person is condemned to hell, but Divine Good brings him out of there and raises him into heaven. Salvation comes of mercy and so sprigs from Divine Good; but damnation exists when a person rejects mercy and so casts Divine Good away from himself, as a consequence of which he is left to be judged by Truth. As regards 'kings' representing Divine Truth, see 1672, 1728, 2015, 2069, 3009, 3670, 4575, 4581, 4966, 5044, 5068.

[7] 'The priests' represented the Lord in respect of Divine Good, and for that reason good is meant by them. This becomes clear from the internal sense of all that was prescribed regarding the priesthood when Aaron was chosen, and after him the Levites, such as these prescriptions:

The High Priest alone should enter the Holy of holies and minister there. [Leviticus 16.]

Things holy to Jehovah were to be for the priest. Leviticus 23:20; 27:21.

They were not to have any portion or inheritance in the land, but Jehovah would be their portion and inheritance. Numbers 18:20; Deuteronomy 10:9; 18:1.

The Levites were given to Jehovah instead of the firstborn, and they were given by Jehovah to Aaron. Numbers 3:9, 12-13, Numbers 3:40-end; 8:16-19.

The high priest and the Levites were to be in the middle of the camp when they pitched it and when they were journeying. Numbers 1:50-54; 2:17; 3:23-38; 4:1-end.

No one from the seed of Aaron who had a blemish in himself was to approach to offer burnt offerings or sacrifices. Leviticus 21:17-20.

And there are many other prescriptions besides these, such as those in Leviticus 21:9-13, and elsewhere.

[8] In the highest sense all these prescriptions relating to the priests represented the Lord's Divine Good and therefore in the relative sense the good of love and charity. Aaron's vestments however, called 'vestments of holiness', represented Divine Truth from Divine Good. These matters will in the Lord's Divine mercy be dealt with in the explanations of what appears in Exodus.

[9] Since truth is meant by 'kings' and good by 'priests', 'kings and priests' are mentioned together many times in the Word, as in John, Jesus Christ has made us kings and priests to His God and Father. Revelation 1:6; 5:10.

By virtue of the truth of faith we are said to have been made 'kings', and by virtue of the good of charity to have been made 'priests', so that the truth and good residing with those who abide in the Lord have been joined together, in the way they are in heaven, as stated above. This is what is meant by 'being made kings and priests'.

[10] In Jeremiah,

It will happen on that day, that the heart of the king and of the princes will perish, and the priests will be dumbfounded and the prophets left wondering. Jeremiah 4:9.

In the same prophet,

The house of Israel is ashamed, they, their kings, their princes, and their priests, and their prophets. Jeremiah 2:26.

In the same prophet,

The kings of Judah, the princes, the priests, and the prophets, and the inhabitants of Jerusalem. Jeremiah 8:1.

In these places 'kings stands for truths, 'princes' for first and foremost truths, 1482, 1089, 5044, 'priests' for forms of good, and 'prophets' for those who teach, 2534.

[11] Quite apart from this it should be recognized that Joseph did not buy the ground of the priests. The fact that this was representative of the consideration that the whole of a person's capacity to receive truth and good comes from the Lord is evident from a similar law in Moses regarding the fields belonging to the Levites,

The field of the country surrounding the cities of the Levites shall not be sold, for it is their eternal possession. Leviticus 25:34.

The meaning here in the internal sense is that no one ought to lay any claim to the good of the Church, which is the good of love and charity, because that good is from the Lord alone.

Notes de bas de page:

1. At this time the patriarch's name was still Abram.

  
/ 10837  
  

Thanks to the Swedenborg Society for the permission to use this translation.