Bibliorum

 

Cuộc di cư 17

Study

   

1 Cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đi từ đồng vắng Sin, đi từng trạm, tùy theo lịnh Ðức Giê-hô-va, đóng trại tại ê-phi-đim; ở đó chẳng có nước cho dân sự uống.

2 Dân sự bèn kiếm cớ cãi lộn cùng Môi-se mà rằng: Hãy cho chúng tôi nước uống. Môi-se đáp rằng: Sao các ngươi kiếm cớ cãi lộn cùng ta? Sao ướm thử Ðức Giê-hô-va vậy?

3 Dân sự ở đó không có nước, bị khát, nên oán trách Môi-se mà rằng: Sao người khiến chúng tôi ra xứ Ê-díp-tô, hầu cho chúng tôi, con và các bầy súc vật phải chịu chết khát thế nầy?

4 Môi-se bèn kêu cầu Ðức Giê-hô-va mà rằng: Tôi phải xử thế nào cùng dân nầy? Thiếu điều họ ném đá tôi!

5 Ðức Giê-hô-va đáp cùng Môi-se rằng: Hãy cầm gậy của ngươi đã đập dưới sông, dẫn theo những trưởng lão Y-sơ-ra-ên, rồi đi trước mặt dân sự.

6 Nầy ta sẽ đứng đằng trước ngươi, ở trên hòn đá tại Hô-rếp kia, ngươi hãy đập hòn đá, thì nước từ đó chảy ra, dân sự sẽ uống lấy. Môi-se bèn làm như vậy trước mặt các trưởng lão Y-sơ-ra-ên.

7 Người đặt tên nơi nầy là Ma-sa và Mê-ri-ba, vì cớ việc cãi lộn mà dân Y-sơ-ra-ên kiếm cớ gây cùng người, và vì họ đã ướm thử Ðức Giê-hô-va mà nói rằng: Có Ðức Giê-hô-va ở giữa chúng ta hay chăng?

8 Vả, khi đó, dân A-ma-léc đến khêu chiến cùng Y-sơ-ra-ên tại ê-phi-đim.

9 Môi-se bèn nói cùng Giô-suê rằng: Hãy chọn lấy tráng sĩ cho chúng ta, ra chiến đấu cùng dân A-ma-léc; ngày mai ta sẽ đứng nơi đầu nổng, cầm gậy của Ðức Chúa Trời trong tay.

10 Giô-suê bèn làm y như lời Môi-se nói, để cự chiến dân A-ma-léc; còn Môi-se, A-rôn và Hu-rơ lên trên đầu nổng.

11 Vả, hễ đang khi Môi-se giơ tay lên, thì dân Y-sơ-ra-ên thắng hơn; nhưng khi người xụi tay xuống, dân A-ma-léc lại thắng hơn.

12 Tay Môi-se mỏi, A-rôn và Hu-rơ bèn lấy đá kê cho người ngồi, rồi ở hai bên đỡ Tay người lên; Tay người chẳng lay động cho đến khi mặt trời lặn.

13 Giô-suê lấy lưỡi gươm đánh bại A-ma-léc và dân sự người.

14 Ðức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy chép điều nầy trong sách làm kỷ niệm, và hãy nói cho Giô-suê biết rằng ta sẽ bôi sạch kỷ niệm về A-ma-léc trong thiên hạ.

15 Môi-se lập lên một bàn thờ, đặt tên là "Giê-hô-va cờ xí của tôi";

16 nói rằng: Bởi vì A-ma-léc có giơ tay lên nghịch cùng ngôi Ðức Giê-hô-va, nên Ðức Giê-hô-va chinh chiến với A-ma-léc từ đời nầy qua đời kia.

   

from the Writings of Emanuel Swedenborg

 

Arcana Coelestia #4875

Studere hoc loco

  
/ 10837  
  

4875. 'Your cord' means through truth, that is to say, truth accompanying the token of consent. This is clear from the meaning of 'a cord' as truth. The reason 'a cord' means truth is that it is one of the items associated with 'garments', and 'garments' in general means truths, for the reason that as garments clothe the flesh, so truths clothe good, 297, 2132, 2576, 4545, 4763. Among the ancients therefore whatever clothing they wore meant some specific or individual truth. Consequently a tunic had one meaning, a chlamys another, and a toga another; also coverings for the head, such as a turban and a mitre, had one meaning, coverings for the thighs and feet, such as breeches, stockings, and so on, had another meaning. But 'a cord' meant outermost or lowest truth, for it was made from threads twisted together, by which the final demarcation of that kind of truth was meant. This kind of truth is again meant by 'a cord' in Moses,

Every open vessel on which there is no covering [or] cord [to fasten it] is unclean. Numbers 19:15.

By this was meant that nothing should exist without having an outer limit, for that which does not have an outer limit is 'open'. Furthermore outermost truths serve as the outer limit and terminus of interior truths.

  
/ 10837  
  

Thanks to the Swedenborg Society for the permission to use this translation.